Cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của Tổng Bí thư Lê Hồng Phong

Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) – vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.

Đồng chí Lê Hồng Phong. Đồng chí Lê Hồng Phong.

Chứng kiến những cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh yêu nước của đồng bào ta bị kẻ thù đàn áp đẫm máu, Lê Hồng Phong sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu nước và ý chí làm cách mạng cứu nước.

Sau khi học hết bậc sơ học yếu lược, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, Lê Hồng Phong rời quê ra thành phố Vinh xin làm việc tại Nhà máy diêm Bến Thủy. Tại đây, ông đã vận động công nhân đứng lên đấu tranh và bị đuổi việc.

Năm 1923, Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái bí mật sang Xiêm (Thái Lan), rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm con đường làm cách mạng.

Tại Quảng Châu, tháng 4-1924, Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái gia nhập Tâm Tâm Xã (một tổ chức cách mạng do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập), hăng hái tham gia hoạt động, phát triển Tâm Tâm Xã thành một tổ chức hạt nhân cách mạng.

Cuối năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu. Trên cơ sở tổ chức Tâm Tâm Xã, Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở lớp huấn luyện cán bộ cách mạng. Lê Hồng Phong được dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc phụ trách, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Sau đó, theo sự giới thiệu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tháng 8-1924, đồng chí Lê Hồng Phong được nhận vào học ở Trường Sĩ quan quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc), sau khi tốt nghiệp được cử sang học Trường Hàng không Quảng Châu. Tại đây, tháng 2-1926, đồng chí Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do có thành tích học tập xuất sắc, đồng thời được sự giới thiệu của chính quyền Quảng Châu và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tháng 10-1926, đồng chí Lê Hồng Phong được cử sang Liên Xô theo học tại Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát (nay là thành phố Xanh Pêtécpua), sau khi tốt nghiệp được tiếp tục theo học Trường đào tạo phi công quân sự ở Bôrítxgơlépxcơ và được gọi về học Trường Đại học Phương Đông.

Trong 3 năm (từ năm 1928 -1931) theo học tại Trường Đại học Phương Đông, đồng chí đã hoàn thành chương trình học tập và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô, được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh.

Đang học, đồng chí được phân công trở về nước hoạt động (tháng 11-1931), chỉ đạo việc tổ chức khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng. Tuy nhiên, do mạng lưới mật thám dày đặc phong tỏa, đồng chí không bắt liên lạc được với cơ sở trong nước, tạm thời phải ở lại Trung Quốc.

Đầu năm 1932, đồng chí về Quảng Tây gần biên giới Việt – Trung và chắp nối liên lạc với các đồng chí: Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn, Lương Văn Chi… tìm cách xây dựng lại hệ thống tổ chức của Đảng; mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, gây dựng cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh biên giới như Lạng Sơn, Cao Bằng; cử các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn đi phát triển cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng quần chúng ở Hải Phòng, Quảng Ninh…

Tháng 6-1932, đồng chí Lê Hồng Phong bàn bạc với các đồng chí lãnh đạo của Đảng cho công bố bản Chương trình hành động của Đảng, do đồng chí khởi thảo và được Quốc tế Cộng sản thông qua. Tháng 3-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (còn gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài) được chính thức thành lập tại Ma Cao (Trung Quốc), có chức năng như Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư.

Khi các tổ chức Đảng trong nước, đặc biệt là các Xứ ủy Nam kỳ và Bắc kỳ được khôi phục, Ban lãnh đạo của Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ trong nước tới họp ở Ma Cao (Trung Quốc) để nhận định tình hình, đề ra chủ trương mới nhằm củng cố Đảng, khôi phục, phát triển các tổ chức quần chúng và chuẩn bị Đại hội lần thứ I của Đảng.

Trong lúc đang khẩn trương chuẩn bị Đại hội, đồng chí Lê Hồng Phong nhận được giấy mời tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Công việc chuẩn bị Đại hội Đảng được giao lại cho các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên…

Tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 25-7 đến 21-8-1935), đồng chí Lê Hồng Phong đọc bản tham luận quan trọng về phong trào cách mạng Đông Dương. Cũng tại Đại hội này, Đảng ta được công nhận là chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong (với bí danh Hải An) được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản kết thúc, Lê Hồng Phong trở lại Thượng Hải (Trung Quốc). Khi đó, Đại hội toàn quốc lần thứ I của Đảng đã bầu đồng chí Lê Hồng Phong (được bầu vắng mặt) làm Tổng Bí thư của Đảng.

Với cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong cùng với Trung ương Đảng triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng (tháng 7-1936) tại Thượng Hải. Hội nghị quyết định chuyển hướng mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, xác định mục tiêu trực tiếp là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, đòi dân chủ, dân sinh và hòa bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai.

Theo đề nghị của đồng chí Lê Hồng Phong, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương, đặt tiền đề cơ sở cho cao trào đấu tranh dân chủ diễn ra trong cả nước thời gian sau đó. Tháng 11-1937, đồng chí Lê Hồng Phong bí mật về hoạt động tại Sài Gòn, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng.

Người bạn đời của đồng chí là Nguyễn Thị Minh Khai cũng đã về nước, tham gia Xứ ủy Nam kỳ kiêm Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, trên cương vị Ủy viên Thường vụ Trung ương, đồng chí Lê Hồng Phong cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định chuyển Mặt trận Nhân dân Phản đế thành Mặt trận Dân chủ nhằm tập hợp đông đảo quần chúng, tranh thủ mọi lực lượng tham gia vào cuộc đấu tranh đòi tự do ngôn luận, đòi
dân sinh, dân chủ và chống phát xít.

Ngày 22-6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc. Sau khi hết hạn 6 tháng tù giam, chúng buộc đồng chí phải về quê nhà Nghệ An để theo dõi, giám sát. Tháng 1-1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt lần thứ hai, giam ở Khám Lớn – Sài Gòn.

Biết đồng chí Lê Hồng Phong là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, thực dân Pháp đã buộc tội đồng chí “chịu trách nhiệm tinh thần” của cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc, đày ra Côn Đảo và chỉ thị cho bọn chúa đảo phải tìm mọi cách hãm hại. Những trận đòn thù tàn ác, dã man làm Lê Hồng Phong kiệt sức dần và đồng chí đã mãi mãi ra đi vào trưa ngày 6-9-1942.

Đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh khi mới 40 tuổi đời, trong đó có hơn 20 năm liên tục hoạt động, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn dặn: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. Đó là lời chào của người cộng sản bất tử Lê Hồng Phong với anh em, đồng chí trước khi về cõi vĩnh hằng.

Đồng chí là người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hình ảnh, tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí mãi mãi được khắc ghi trong trái tim, tâm hồn của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.

(Nguồn: Tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương)