Một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học

Các kỹ thuật dạy học tích cực

Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học là một số phương pháp cũng như kỹ thuật dạy học tích cực ở cấp tiểu học. Một số kỹ thuật dạy học tích cực như kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật các mảnh ghép, dạy học theo sơ đồ KWL và sơ đồ tư duy… Mời thầy cô cùng tham khảo chi tiết một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học tại đây.

1. Kĩ thuật các mảnh ghép (JIGSAW)

id=”muc1″ style=”text-align:justify”>

Một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học

Kỹ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập kết hợp giữa cá nhân với nhóm và các nhóm với nhau nhằm:

– Cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ có nhiều chủ đề

– Khuyến khích sự tham gia tích cực của học sinh

– Nâng cao vai trò cá nhân trong quá trình hợp tác (Mỗi cá nhân không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2)

. Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Phân học sinh thành từng nhóm có nhóm trưởng

– Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm.

– Các nhóm cùng thảo luận và rút ra kết quả, yêu cầu từng thành viên trong nhóm đều có khả năng trình bày kết quả.

– Mỗi nhóm sẽ tách ra và hình thành nhóm mới theo sơ đồ.

– Lần lượt từng thành viên trình bày kết quả thảo luận.

Lưu ý:

– Các chủ đề đưa ra thảo luận cần chọn lọc đảm bảo có tính độc lập với nhau.

– Trước khi tách nhóm phải đảm bảo các thành viên đều có khả năng trình bày kết quả thảo luận ở bước thảo luận đầu tiên.

Ưu điểm:

– Phát triển tinh thần làm việc theo nhóm.

– Phát huy trách nhiệm của từng cá nhân.

– Giúp học sinh phát huy hiểu biết và giải quyết những hiểu biết lệch lạc.

– Giúp đào sâu kiến thức trong các lĩnh vực.

Hạn chế:

– Kết quả phụ thuộc vào quá trình thảo luận ở vòng 1, nếu vòng thảo luận này không có chất lượng thì cả hoạt động sẽ không có hiệu quả.

– Số lượng thành viên trong nhóm rất dễ không đồng đều.

– Không thể sử dụng kỹ thuật này cho các nội dung thảo luận có mối quan hệ ràng buộc nhân quả với nhau.

2. Kỹ thuật “Khăn trải bàn”

id=”muc2″ style=”text-align:justify”>

Các kỹ thuật dạy học tích cực

Kỹ thuật khăn trải bàn cũng là phương pháp dạy học tích cực tổ chức hoạt động mang tính kết hợp giữa hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm nhằm:

– Thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh

– Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh

– Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với nhau

Dụng cụ: Bút và giấy khổ lớn cho mỗi nhóm.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký và giao dụng cụ.

– Giáo viên đưa ra vấn đề cho ccacs nhòm, từng thành viên viết ý kiến của mình vào góc của tờ giấy.

– Nhóm trưởng và thư ký sẽ tổng hợp các ý kiến và lựa chọn những ý kiến quan trọng viết vào giữa tờ giấy.

Lưu ý: Mỗi thành viên làm việc tại góc riêng của mình.

Ưu điểm: Tăng cường tính độc lập và trách nhiệm của người học.

Hạn chế: Tốn kém chi phí và khó lưu trữ, sửa chữa kết quả.

3. Kỹ thuật động não (BRAINSTORMING)

id=”muc3″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật động não (công não) do Alex Osborn (Mỹ) phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn độ. Là kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong nhóm cùng thảo luận. Các thành viên tham gia một cách tích cực nhằm tạo ra “cơn lốc” ý tưởng.

Dụng cụ:

– Sử dụng bảng hoặc giấy khổ lớn để mọi người dễ đọc các ý kiến.

– Hệ thống máy tính kết nối mạng.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm, các nhóm tự chọn nhóm trưởng và thư ký.

– Giao vấn đề cho nhóm.

– Nhóm trưởng điều hành hoạt động thảo luận chung của cả nhóm trong một thời gian quy định, các ý kiến đều được thư ký ghi nhận, khuyến khích thành viên đưa càng nhiều ý kiến càng tốt.

– Cả nhóm cùng lựa chọn giải pháp tối ưu, thu gọn các ý tưởng trùng lặp, xóa những ý không phù hợp, sau cùng thư ký báo cáo kết quả.

Lưu ý: Trong quá trình thu thập ý kiến, không được phê bình hay nhận

Ưu điểm:

– Dễ thực hiện, không mất nhiều thời gian.

– Huy động mọi ý kiến của thành viên, tập trung trí tuệ.

– Khuyến khích các thành viên nhóm tham gia hoạt động.

Hạn chế:

– Dễ xảy ra tình trạng lạc đề nếu chủ đề không rõ ràng.

– Mất thời gian cho việc lựa chọn các ý kiến tốt nhất.

– Có tình trạng một số thành viên quá năng động nhưng một số khác không tham gia.

– Lưu trữ kết quả thảo luận khá khó khăn và lãng phí.

4. Kỹ thuật “Bể cá”

id=”muc4″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật “Bể cá” thường dùng để thảo luận nhóm, học sinh sẽ ngồi thành một nhóm và thảo luận với nhau. Số học sinh còn lại trong lớp ngồi xung quanh theo vòng bên ngoài để theo dõi cuộc thảo luận và khi kết thúc thảo luận sẽ đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những học sinh thảo luận. Vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận như xem những con cá trong bể cá nên được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”.

Lưu ý trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi để những học sinh tham gia quan sát có thể ngồi vào đó và đóng góp ý kiến cho cuộc thảo luận. Trong quá trình thảo luận, có thể thay đổi vai trò của những người quan sát và những người thảo luận với nhau.

Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Giáo viên đưa ra chủ đề thảo luận cho một nhóm trung tâm.

– Nhóm này sẽ tiến hành thảo luận với nhau

– Các thành viên còn lại của lớp sẽ ngồi xung quanh, tập trung quan sát nhóm đang thảo luận.

Ưu điểm: Kỹ thuật này vừa giải quyết được vấn đề vừa phát triển kỹ năng quan sát và giao tiếp của học sinh.

Hạn chế:

– Yêu cầu phải có không gian tương đối rộng.

– Trong quá trình thảo luận cần có thiết bị âm thanh, hoặc phải nói to để mọi người nghe rõ.

– Những thành viên nhóm quan sát rất dễ có xu hướng không tập trung vào chủ đề thảo luận.

5. Kỹ thuật “Tia chớp”

id=”muc5″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật tia chớp sẽ huy động sự tham gia của mọi thành viên vào một câu hỏi nào đó nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học. Yêu cầu các thành viên lần lượt trả lời thật nhanh và ngắn gọn ý kiến của mình.

Thực hiện:

– Kỹ thuật có thể áp dụng tại bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị.

– Từng người một nói ra suy nghĩ của mình thật nhanh và ngắn gọn khoảng 1-2 câu về câu hỏi đã thoả thuận.

– Tiến hành thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.

6. Kỹ thuật “XYZ” (KỸ THUẬT 365)

id=”muc6″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật “XYZ” sử dụng với mục đích phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. Trong đó, X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người.

Kỹ thuật này cần 6 người mỗi nhóm, mỗi người sẽ viết ra 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh. Do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635.

Đọc thêm: 8 biện pháp khắc phục nhanh tình trạng học sinh nói chuyện riêng trong giờ học

Dụng cụ: Chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm và đưa ra chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian theo đúng quy tắc XYZ.

– Các thành viên trong nhóm trình bày ý kiến của mình, hoặc đưa ý kiến cho thư ký tổng hợp lại để tiến hành đánh giá và lựa chọn.

Lưu ý: Giáo viên phân chia số lượng thành viên đồng đều, quy định và theo dõi thời gian cụ thể để tạo tính công bằng giữa các nhóm.

Ưu điểm: Kỹ thuật này có yêu cầu cụ thể nên bắt buộc các thành viên trong nhóm đều phải làm việc.

Hạn chế: Mất nhiều thời gian cho hoạt động nhóm, nhất là quá trình tổng hợp và đánh giá ý kiến.

7. Kỹ thuật “Lược đồ tư duy” HAY “Sơ đồ tư duy”

id=”muc7″ style=”text-align:justify”>

Phương pháp dạy học tích cực theo kỹ thuật lược đồ tư duy do Tony Buzan đề xuất từ cơ sở sinh lý thần kinh về quá trình tư duy. Kỹ thuật này là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng.

Dụng cụ: Bảng lớn hoặc giấy khổ lớn, bút nhiều màu, các phần mềm vẽ sơ đồ tư duy.

Thực hiện:

– Giáo viên chia nhóm và giao chủ đề cho các nhóm

– Mỗi thành viên lần lượt kết nối ý tưởng trung tâm với ý tưởng của cá nhân để mô tả ý tưởng thông qua hình ảnh, biểu tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn.

Lưu ý:

– Giáo viên để học sinh tự lựa chọn sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ đồ chuỗi

– Giáo viên đưa câu hỏi gợi ý để các nhóm lập sơ đồ.

– Khuyến khích học sinh sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt.

Ưu điểm:

– Kỹ thuật sơ đồ tư duy giúp học sinh nắm được quá trình tổ chức thông tin, ý tưởng cũng như giải thích và kết nối thông tin với cách hiểu biết của mình.

– Thích hợp với các nội dung ôn tập, liên kết lý thuyết với thực tế.

– Phù hợp tâm lý học sinh, đơn giản, dễ hiểu.

Hạn chế:

– Kỹ thuật sử dụng sơ đồ giấy khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.

– Sơ đồ do giáo viên xây dựng, sau đó giảng giải cho học sinh khiến học sinh khó nhớ bài hơn học sinh tự làm.

8. Kỹ thuật “Chia sẻ nhóm đôi” (THINK, PAIR, SHARE)

id=”muc8″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi do giáo sư Frank Lyman đại học Maryland giới thiệu năm 1981. Đây là hoạt động làm việc theo nhóm đôi, qua đó phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề.

Dụng cụ: Không cần thiết sử dụng các dụng cụ hỗ trợ vì chủ yếu phát triển kỹ năng nghe và nói của học sinh

Thực hiện:

– Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở và dành thời gian để học sinh suy nghĩ.

– Học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại với nhau

– Nhóm đôi này lại tiếp tục chia sẻ với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.

Lưu ý: Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích để học sinh chia sẻ được ý tưởng mà mình đã nhận được chứ không chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân.

Ưu điểm: Học sinh biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm để phát triển được những câu trả lời tốt.

Hạn chế: Giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp nên học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không liên quan đến bài học.

9. Kỹ thuật Kipling (5W1H)

id=”muc9″ style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật Kipling (5W1H)

Kỹ thuật Kipling được sử dụng trong các trường hợp cần có thêm ý tưởng mới, xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề, chọn lựa ý tưởng để phát triển.

Dụng cụ : Giấy bút cho học sinh

Thực hiện:

Giáo viên đưa ra các câu hỏi theo thứ tự ngẫu nhiên hoặc theo một trật tự định ngầm trước, với các từ khóa: Ai, Cái gì, Ở đâu, Khi nào, Thế nào, Tại sao.

Lưu ý: Các câu hỏi đưa ra cần ngắn gọn, đi thẳng vào chủ đề và bám sát vào hệ thống từ khóa 5W1H (what, where, when, who, why, how).

Ưu điểm:

– Không mất thời gian, mang tính logic cao.

– Có thể sử dụng cho nhiều tình huống khác nhau.

– Áp dụng được cho cá nhân.

Hạn chế:

– Sự phối hợp của các thành viên bị hạn chế

– Dễ xảy ra tình trạng “9 người 10 ý”.

– Có thể tạo cảm giác bị điều tra.

10. Kỹ thuật “ Trình bày một phút”

id=”muc9″ style=”text-align:justify”>

Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.

Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:

– Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?…

– HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.

– Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.

11. Kỹ thuật phân tích phim video

id=”muc9″ style=”text-align:justify”>

Phim video có thể là một trong các phương tiện để truyền đạt nội dung bài học. Phim nên tương đối ngắn gọn (5-20 phút). GV cần xem qua trước để đảm bảo là phim phù hợp để chiếu cho các em xem.

– Trước khi cho HS xem phim, hãy nêu một số câu hỏi thảo luận hoặc liệt kê các ý mà các em cần tập trung. Làm như vây sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.

– HS xem phim

– Sau khi xem phim video, yêu cầu HS làm việc một mình hoặc theo cặp và trả lời các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản về nội dung phim đã xem.

12. Kỹ thuật đóng vai

id=”mcetoc_1et60hr843o” style=”text-align:justify”>

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.

Quy trình thực hiện

Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau :

– Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.

– Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.

– Các nhóm lên đóng vai.

– Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng xử.

– GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho.

Một số lưu ý

– Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.

– Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép

– Tình huống phải có nhiều cách giải quyết

– Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.

– Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai

– Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai

– Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm

– Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết

– Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận

– Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.

– Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai.

13. Kỹ thuật trò chơi

id=”mcetoc_1et60hr843p” style=”text-align:justify”>

Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.

Quy trình thực hiện

– GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS

– Chơi thử ( nếu cần thiết)

– HS tiến hành chơi

– Đánh giá sau trò chơi

– Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi

Một số lưu ý

– Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho HS.

– HS phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.

– Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.

– Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, tạo điều kiện cho HS tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.

– Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho HS.

– Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.

14. Kỹ thuật dự án

id=”mcetoc_1et60hr843q” style=”text-align:justify”>

HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành.

Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được.

Đọc thêm: 7 câu hiệu lệnh ổn định trật tự lớp học được giáo viên tiểu học sử dụng nhiều nhất

Quy trình thực hiện

B­ước 1: Lập kế hoạch

+ Lựa chọn chủ đề

+ Xây dựng tiểu chủ đề

+ Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập

– Bước 2: Thực hiện dự án

+ Thu thập thông tin

+ Thực hiện điều tra

+ Thảo luận với các thành viên khác

+ Tham vấn giáo viên hướng dẫn

– Bước 3: Tổng hợp kết quả

+ Tổng hợp các kết quả

+ Xây dựng sản phẩm

+ Trình bày kết quả

+ Phản ánh lại quá trình học tập

Một số lưu ý

– Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành.

– Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS.

– HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân.

– Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.

– Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.

– Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

15. Kỹ thuật giao nhiệm vụ

id=”muc9″ style=”text-align:justify”>

– Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:

+ Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?

+ Nhiệm vụ là gì?

+ Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?

+ Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?

+ Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?

+ Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?

+ Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?

– Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian, không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị.

16. Kỹ thuật đặt câu hỏi

id=”muc9″ style=”text-align:justify”>

Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.

Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS – HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn.

Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để:

– Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham gia vào quá trình dạy học

– Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với ND học tập

– Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức

Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:

– Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học

– Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu

– Đúng lúc, đúng chỗ

– Phù hợp với trình độ HS

– Kích thích suy nghĩ của HS

– Phù hợp với thời gian thực tế

– Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

– Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính

– Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc

17. Kỹ thuật giải quyết vấn đề

id=”mcetoc_1et60hr843r” style=”text-align:justify”>

Dạy học (DH) phát hiện và giải quyết vấn đề (GQVĐ) là PPDH đặt ra trước HS các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển HS vào tình huống có vấn đề , kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề.

Quy trình thực hiện

– Xác định, nhận dạng vấn đề/tình huống;

– Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra;

– Liệt kê các cách giải quyết có thể có ;

– Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết ( tích cực, hạn chế, cảm xúc, giá trị) ;

– So sánh kết quả các cách giải quyết ;

– Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất;

– Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn;

– Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.

Một số lưu ý

Các vấn đề/ tình huống đưa ra để HS xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu cầu sau:

Tổ chức cho HS giải quyết, xử lí vấn đề/ tình huống cần chú ý:

– Các nhóm HS có thể giải quyết cùng một vấn đề/ tình huống hoặc các vấn đề/ tình huống khác nhau, tuỳ theo mục đích của hoạt động.

– HS cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề.

– Cần sử dụng phương pháp động não để HS liệt kê các cách giải quyết có thể có.

– Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi HS có thể giống hoặc khác nhau.

18. Kỹ thuật phòng tranh

id=”mcetoc_1et60hr843s” style=”text-align:justify”>

Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.

– GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.

– Mỗi thành viên ( hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.

– HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.

– Cuối cùng, tất cả các ph­ương án giải quyết được tập hợp lại và tìm ph­ương án tối ­ưu.

19. Kỹ thuật công đoàn

id=”mcetoc_1et60hr843t” style=”text-align:justify”>

– HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…

– Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển cho nhóm 1

– Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý.

– Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm . Sau khi hoàn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.

19. Kỹ thuật “Hỏi chuyên gia”

id=”mcetoc_1et60hr843u” style=”text-align:justify”>

– HS xung phong (hoặc theo sự phân công của GV) tạo thành các nhóm “chuyên gia” về một chủ đề nhất định.

– Các ”chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu có liên quan đến chủ đề mình được phân công.

– Nhóm ”chuyên gia” lên ngồi phía trên lớp học

– Một em trưởng nhóm ”chuyên gia” (hoặc GV) sẽ điều khiển buổi “tư vấn”, mời các bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời ”chuyên gia” giải đáp, trả lời.

20. Kỹ thuật KWL (KWLH)

id=”mcetoc_1et60hr843v” style=”text-align:justify”>

Kỹ thuật KWL là một hình thức tổ chức dạy học thông qua hoạt động đọc hiểu o Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Với kỹ thuật này, học sinh suy nghĩ về chủ đề bài đọc và ghi nhận tất cả những gì các em đã biết vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh lên danh sách các câu hỏi muốn biết thêm trong chủ đề và ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Sau khi đọc xong, học sinh sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W và ghi nhận vào cột L.

KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC HIỆU QUẢ NHẤT

Sau này biểu đồ KWL được bổ sung thêm cột H ở sau cùng nhằm khuyến khích học sinh định hướng nghiên cứu. Cột H sẽ ghi nhận những biện pháp tìm thông tin mở rộng sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột Lvà muốn tìm hiểu thêm.

Dụng cụ: Bảng KWL (KWLH) dành cho giáo viên và học sinh.

Thực hiện:

– Chọn bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích

– Tạo bảng KWL (KWLH)

– Giáo viên vẽ lên bảng, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng riêng.

– Yêu cầu học sinh suy nghĩ nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận vào cột K. Kết thúc hoạt động khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng và tổ chức cho các em thảo luận về những gì đã ghi nhận.

– Giáo viên gợi mở cho học sinh xem muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Khi học sinh nêu ra tất cả các ý tưởng thì giáo viên và học sinh cùng ghi nhận câu hỏi vào cột W.

– Bắt buộc học sinh đọc và tự điền câu trả lời tìm được vào cột L. Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời và ghi nhận vào cột W.

Lưu ý :

– Giáo viên nên chuẩn bị câu hỏi để giúp học sinh động não.

– Khuyến khích học sinh giải thích về những điều các em nêu ra.

– Nên đặt câu hỏi tiếp nối và gợi mở.

– Giáo viên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng để bổ sung vào cột W.

– Khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích.

Ưu điểm:

– Những điều học sinh cần học có liên quan trực tiếp đến nhu cầu về kiến thức nên tạo hứng thú học tập cho các em.

– Hình thành khả năng tự định hướng học tập cho học sinh

– Giáo viên và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, định hướng cho các hoạt động tiếp.

Hạn chế: Các sơ đồ cần phải được lưu trữ cẩn thận sau khi hoàn thành hai bước K và W, vì bước L có thể sẽ phải mất một thời gian dài mới có thể tiếp tục thực hiện.