Một con gà mái hậu bị có bộ xương phát triển hoàn thiện vào lúc 12 tuần tuổi. Sau đó, hệ thống tủy xương cũng được hình thành dần chiếm tới 19% tổng khối lượng xương của cơ thể.
Cách 1: Bổ sung các hạt đá vôi nhỏ cho gà đẻ hậu bị từ nhỏ.
Trong các thử nghiệm tại Đại học Nebraska, những con gà mái giống Lohmann Brown và giống Bovan White được nuôi nhốt trong lồng tự do và có bổ sung thêm các hạt đá vôi mịn hoặc thô dạng viên vào trong khẩu phần ăn, với kích thước viên khoảng 0,431-0,879mm. Từ 18 đến 54 tuần tuổi, tất cả gà đẻđều được ăn cùng chế độ ăn tương tự nhau.
Kết quả của đàn gà mái hậu bị (là gà mái từ 1-18 tuần tuổi, gà mái trước giai đoạn đẻ trứng) được bổ sung các hạt đá vôi nhỏ vào trong khẩu phần ăn:
• Những gà nuôi nhốt trong lồng tự do cho tỷ trọng khoáng trong xương cao hơn những gà nuôi nhốt trong lồng truyền thống.
• Những gà đẻ có xương màu trắng cũng có tỷ trọng khoáng trong xương cao hơn những gà mái có xương màu nâu.
– Tỷ lệ gà bị trẹo xương sống thấp hơn đàn nuôi bình thường 2,8 lần.
– Giai đoạn đẻ trứng: vỏ nặng hơn những gà ăn chế độ bình thường.
– Giai đoạn 54 tuần tuổi: có tỷ lệ dị dạng xương ức giảm hơn so với đàn gà đẻ ăn chế độ ăn bình thường.
Tóm lại, bổ sung thêm đá vôi vào trong khẩu phần ăn cho gà mái hậu bị giúp tăng tỷ trọng khoáng trong xương cho gà khi bắt đầu vào giai đoạn gà đẻ và giảm tỷ lệ trẹo xương đáng kể.
Cách 2: Điều chỉnh cùng lúc cả Canxi tự do và tỷ lệ phospho trong khẩu phần ăn của gà đẻ
Toàn bộ gà thử nghiệm được nuôi theo mô hình chuồng sàn và khẩu phần ăn được điều chỉnh bổ sung như sau:
– Gà đẻ hậu bị từ 1-5 tuần tuổi: chế độ ăn bình thường.
– Gà hậu bị từ 5-14 tuần tuổi:
• Khẩu phần 1: tỷ lệ phospho trong khẩu phần ăn giảm từ 0,35 xuống còn 0,25%. Bổ sung viên đá vôi dạng mịn có đường kính ≤ 0,431mm.
• Khẩu phần 2: tỷ lệ phospho trong khẩu phần ăn giảm từ 0,35 xuống còn 0,25%. Bổ sung viên đá vôi dạng thô có đường kính ≤ 0,878mm.
– Gà đẻ hậu bị từ 14-18 tuần tuổi:
• tỷ lệ phospho trong khẩu phần ăn giảm từ 0,3 xuống còn 0,2%. Bổ sung viên đá vôi dạng thô có đường kính ≤ 0,878mm.
• tỷ lệ phospho trong khẩu phần ăn giảm từ 0,3 xuống còn 0,2%. Bổ sung viên đá vôi dạng mịn có đường kính ≤ 0,431mm.
Kết quả ảnh hưởng của canxi và phospho trong khẩu phần ăn lên bộ xương của đàn gà đẻ:
– Khi bổ sung viên đá vôi thô vào trong khẩu phần ăn, trọng lượng cơ thể gà hậu bị tăng tốt nhất với nồng độ phospho thấp.
– Việc điều chỉnh hàm lượng phospho xuống thấp trong giai đoạn gà đẻ hậu bị giúp cải thiện đáng kể chất lượng vỏ trứng.
– Đối với khẩu phần có bổ sung đá vôi thô, hàm lượng phospho không ảnh hưởng tới tỷ lệ biến dạng xương ức của gà hậu bị nuôi theo kiểu chuồng lồng tự do.
– Các khẩu phần ăn khác nhau trên không có ảnh hưởng đáng kể đối với các vấn đề trên xương ức.
Sức sản xuất của gà mái trắng hơn hẳn gà mái nâu. Những đàn có bổ sung thêm canxi và phospho trong khẩu phần ăn gà mái sản xuất được nhiều trứng hơn, thời gian khai thác sau khi đẻ đỉnh điểm kéo dài hơn. Trọng lượng trứng tăng lên đáng kể nhất là thời kỳ đầu của quá trình đẻ.
Có một mối tương quan thấy rõ giữa hệ thống nhà ở và sự căng thẳng của đàn gà đẻ cũng như tỷ lệ dị dạng xương ức.
Gà mái nâu nuôi trong chuồng lồng có tỷ lệ dị dạng xương ức cao nhất, cao hơn bình thường 10%. Tiếp đến là gà mái trắng nuôi trong lồng hoặc trong chuồng lồng tự do với tỷ lệ xương ức bất thường lên tới 4%. Gà đẻ nâu nuôi trong lồng có tỷ lệ xương ức dị dạng rất thấp.
Ảnh hưởng của canxi và phospho bổ sung trong khẩu phần ăn lớn nhất là lên đối tượng gà mái đẻ nuôi trong lồng. Gà mái đẻ nuôi chuồng sàn không chịu nhiều ảnh hưởng của canxi và phospho lên chất lượng vỏ trứng.
Cách 4: lựa chọn canxi tự do bổ sung cho gà đẻ nuôi trong các hệ thống chuồng sàn.
Sau một thời gian, người ta tiến hành đo độ biến dạng của xương ức, chất lượng vỏ trứng và mật độ khoáng trong xương để đánh giá ảnh hưởng của vỏ hàu lên những gà mái này.